Thứ Ba, 29 tháng 7, 2014

 Từ sau khi có Quyết định của Chính phủ, Đại học Đà Nẵng đã nhanh chóng triển khai các công tác trước mắt về sửa chữa xây dựng cơ sở vật chất của trường, công tác nhân sự và chuẩn bị cho bộ máy trường Đại học Ngoại ngữ sớm đi vào hoạt động.
       Ngày 02 tháng 6 năm 2003, Đảng uỷ Đại học Đà Nẵng đã có phiên họp thống nhất về công tác nhân sự cho trường làm bằng đại học giá rẻ Ngoại ngữ. Kể từ ngày 10 tháng 6 năm 2003, trường Đại học Ngoại ngữ thuộc Đại học Đà Nẵng đã chính thức hoạt động trên cơ sở các Quyết định của Chính phủ, Bộ GD & ĐT và Giám đốc Đại học Đà Nẵng về cán bộ chủ chốt của Trường.
đại học ngoại ngữ thành phố đà nẵng

       Trường Đại học Ngoại ngữ là đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập, là một trong sáu trường thành viên chịu sự quản lý trực tiếp của Đại học Đà Nẵng.
        
2. Chức năng - nhiệm vụ làm bằng đại học giá rẻ
      Trường Đại học Ngoại ngữ thuộc Đại học Đà Nẵng có nhiệm vụ đào tạo giáo viên ngoại ngữ, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ngoại ngữ phục vụ khu vực miền Trung và Tây Nguyên và cả nước đồng thời là trung tâm nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá nước ngoài của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Cụ thể, trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng có chức năng nhiệm vụ sau:
       - Đào tạo giáo viên và chuyên gia ngôn ngữ có trình độ đại học tại một số ngôn ngữ thông dụng trên thế giới.
       - Đào tạo cử nhân khoa học và sau đại học
       - Giảng dạy ngoại ngữ cho các trường thành viên thuộc Đại học Đà Nẵng.
       - Đào tạo bồi dưỡng ngoại ngữ chuyên ngành.
       - Bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ các trường phổ thông.
       - Giảng dạy tiếng Việt và giới thiệu Văn hoá Việt Nam cho người nước ngoài.
        - Nghiên cứu khoa học và thực hiện các dịch vụ xã hội thuộc lĩnh vực ngoại ngữ
        - Mở rộng quan hệ hợp tác Quốc tế và giao lưu văn hoá. 

         - Giảng dạy và tổ chức thi các chứng chỉ quốc tế
Một số ngành đào tạo chính của Nhà trường:
   * Bậc đại học

       1. Sư phạm tiếng Anh
       2. Cử nhân tiếng Anh
       3. Sư phạm tiếng Nga
       4. Cử nhân tiếng Nga
       5. Sư phạm tiếng Pháp
       6. Cử nhân tiếng Pháp
       7. Sư phạm tiếng Trung
       8. Cử nhân tiếng Trung
       9. Cử nhân tiếng Nhật
       10. Cử nhân tiếng Hàn Quốc
       11. Cử nhân tiếng Thái Lan
       12. Cử nhân Quốc tế học
       13. Tiếng Việt và cơ sở văn hóa dành cho người nước ngoài
       14. Cử nhân tiếng Anh Thương mại
       15. Cử nhân tiếng Trung Thương mại
       16. Cử nhân tiếng Pháp du lịch
       17. Cử nhân Sư phạm tiếng Anh bậc tiểu học 
   * Sau đại học

       18. Thạc sĩ Ngôn ngữ Anh 
       19. Thạc sĩ Ngôn ngữ Pháp
       20. Tiến sĩ Ngôn ngữ Anh
 
3. Mục tiêu
      Trường Đại học Ngoại ngữ là đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập, dưới sự quản lý trực tiếp của Đại học Đà Nẵng. Mục tiêu của trường là phấn đấu trở thành trung tâm đào tạo giáo viên và cán bộ ngoại ngữ đồng thời là trung tâm nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá nước ngoài đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần tích cực cho việc phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên.

4. Hợp tác Quốc tế
     Trường có quan hệ hợp tác với nhiều Trường Đại học, Viện nghiên cứu trong nước và Quốc tế.
    Viện khoa học Giáo dục, Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, các Sở Giáo dục và Đào tạo, các Trung tâm Giáo dục thường xuyên các địa phương.
    Các Trường Đại học và Viện nghiên cứu tại Cộng hoà Liên bang Nga và các nước SNG (Viện Puskin Institute), Hội đồng Anh(British Council), Mỹ, Canada (World University Service of Canada),Úc (The University of Queensland), Pháp (Agence Universitaire de la Francophone Crefap), Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia, Singapore, KOICA Hàn Quốc, JICA Nhật Bản...


5. Nhân sự của trường
        Hiện nay Trường Đại học Ngoại ngữ có 274 Cán bộ viên chức, trong đó 208 Cán bộ giảng viên, 51 Giảng viên chính, 158 Giảng viên, 45 Chuyên viên, 66 Hành chính - Phục vụ, 23 ngạch khác.
        Học hàm, học vị: Nhà trường có: 02 Phó Giáo sư, 19 Tiến sĩ, 142 Thạc sĩ, 90 Đại học. Hầu hết Cán bộ giáo dục của nhà trường được đào tạo tại các cơ sở có uy tín của nước ngoài và phần lớn Cán bộ giáo dục có 2 bằng thạc sĩ trong và ngoài nước.



Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2014

Sau 5 năm thành lập nhà trường đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách ban đầu cùng nhau xây dựng một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực đạt chất lượng của tỉnh Hà Tĩnh.
Kể từ khi thành lập đến nay nhà trường đã nhanh chóng mở rộng quy mô đào tạo, quy mô tổ chức, đội ngũ giảng viên, tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học.
Tính đến năm 2011 nhà trường đang đào tạo hơn 9000 sinh viên với 48 mã ngành khác nhau. Chương trình đào tạo được dựa trên chương trình khung của Bộ GD&ĐT và thực hiện chương trình đào tạo từ bậc trung học, cao đẳng và làm bằng đại học tại hà nội. Nhà trường liên tục mở rộng quy mô đào tạo, liên kết và đa dạng hóa chương trình đào tạo với các trường đại học trong nước như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Đà Nẵng... mở chương trình đào tạo sau đại học cho đội ngũ cán bộ của tỉnh nhà.
trường đại học hà tĩnh

Cở sở vật chất của nhà trường không ngừng được đầu tư, xây dựng đáp ứng cho nhu cầu dạy và học. Hệ thống các phòng thực hành được trang bị đầy đủ với thiết bị hiện đại đạt tiêu chuẩn làm bằng đại học tại hà nội. Hệ thống thư viện điện tử cùng với hơn 8.000 đầu sách và tài liệu tạp chí chuyên ngành, hệ thống máy tính được nối mạng trong toàn trường đã tạo thuận lợi cho công tác giảng dạy và học tập.
Từ khi được thành lập đến nay đội ngũ giảng viên không ngừng tăng về số lượng, chất lượng và trẻ hóa đội ngũ. Tính đến hết năm 2011, Trường Đại học Hà Tĩnh có 276 CBGV với trên 70% có trình độ trên đại học trong đó có 1 GS.TS, 5 TS. Nhà trường thường xuyên tạo mọi điều kiện và cử CBGV đi đào tạo bồi dưỡng; hiện nay đang có 8 giảng viên đi nghiên cứu sinh, 35 giảng viên học Thạc sĩ ở trong nước và nước ngoài. Đội ngũ giảng viên đều chuẩn theo quy định và giảng dạy theo đúng chuyên ngành được đào tạo. Đây là một bước cố gắng lớn của trường trong 5 năm qua. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà trường được phát triển theo yêu cầu đào tạo và quản lý đến nay đã có 24 đơn vị bao gồm 7 khoa; 2 bộ môn; 9 phòng, ban và 6 trung tâm.

Kể từ khi thành lập trường đại học hà tĩnh đến nay có 100% giảng viên tham gia viết bài nghiên cứu khoa học;trong những năm qua trường đã thực hiện được 1 đề tài cấp tỉnh, 24 đề tài cấp trường, 178 đề tài cấp khoa, 214 bài đăng thông báo khoa học, gần 20 bài báo đăng ở các tạp chí khoa học, tổ chức 17 hội nghị nghiên cứu khoa học sinh viên cấp khoa với 165 báo cáo, thực hiện thành công 1 dự án cấp Bộ: "Biên soạn chương trình giáo dục đại học theo học chế tín chỉ ngành ngân hàng; tham gia các dự án nghiên cứu khoa học trong nước góp phần cải tiến nội dung giảng dạy. Công tác nghiên cứu khoa học trong sinh viên cũng được quan tâm dù bước đầu chỉ thông qua những bài tập hoặc luận văn tốt nghiệp nhưng có đến 80% đề tài được hội đồng khoa học đánh giá cao. Đặc biệt sinh viên nhà trường có một báo cáo khoa học đạt giải nhất sinh viên nghiên cứu khoa học các trường đại học khối kinh tế quản trị kinh doanh; 1 công trình của sinh viên đạt giải khuyến khích cuộc thi sáng tạo khoa học kỹ thuật thanh thiếu niên nhi đồng do tỉnh Hà Tĩnh tổ chức; 5 sinh viên đạt giải tại các cuộc thi Olympic Toán toàn quốc lần thứ XIX.
Trường Đại học Hà Tĩnh đã được nhiều phần thưởng, danh hiệu cao quý như: Bằng khen của Thủ Tướng Chính Phủ; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Công An; UBND tỉnh Hà Tĩnh. Đặc biệt năm học 2010-2011 GS.TS Nguyễn Văn Đính - Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Tĩnh đã được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú và được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng III; Trường Đại học Hà Tĩnh vinh dự là một trong 10 trường đại học của cả nước được nhận bằng khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đạt thành tích xuất sắc toàn diện.
Trường Đại học Nghệ thuật Huế ngày nay nguyên là trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế được thành lập năm 1957. Năm 1986 sát nhập với trường Trung học Âm nhạc Huế thành trường Cao đẳng Nghệ thuật. Năm 1994, trường chuyển từ Bộ Văn Hóa - Thông tin sang Bộ Giáo dục - Đào tạo và trở thành trường Đại học Nghệ thuật - một thành viên của Đại Học Huế. Tháng 11- 2007, ngành âm nhạc tách để thành lập Học viện Âm nhạc Huế. Trường làm bằng đại học tại hà nội Nghệ thuật Huế có chức năng nhiệm vụ đào tạo giáo viên, cán bộ mỹ thuật, bồi dưỡng nhân tài mỹ thuật, có trình độ đại học để cung cấp cho các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, góp phần phát triển sự nghiệp văn hóa nghệ thuật của khu vực và đất nước.
trường đại học nghệ thuật

Đối với trường Đại học Nghệ thuật Huế, địa bàn miền Trung và Tây nguyên có một ý nghĩa đặc biệt trong việc tạo nên một sắc thái nghệ thuật vùng miền nói chung và đặc trưng trong công tác đào tạo nghệ thuật của trường nói riêng.
Huế là cái nôi của nền văn hóa Phú Xuân, ngoài ra khu vực này còn là nơi hỗn dung của nhiều nền văn hóa nghệ thuật bản địa khác nhau, đáng lưu ý nhất là nghệ thuật Chăm và nghệ thuật của các dân tộc Tây nguyên. Trong lịch sử, địa bàn này còn là cửa ngõ tiếp hợp nhiều luồng văn hóa nghệ thuật từ bên ngoài: Mã lai đa đảo, Đông Bắc Á, lục địa Ấn Độ và cả Tây phương. Chính nhờ sự hỗn dung và tiếp hợp một cách tích cực này mà chỉ trên một dải đất chưa đầy 200km đã qui tụ 3 di sản văn hóa với đặc trưng khác nhau và được UNESCO công nhận: Cố đô Huế - nơi trường Đại học Nghệ thuật Huế tọa lạc, Phố cổ Hội An và quần thể di tích Chăm ở Mỹ Sơn.
Trường Đại học Nghệ thuật Huế là một trong 3 trung tâm đào tạo làm bằng đại học tại hà nội nghệ thuật lớn của cả nước. Đến nay Trường có 5 ngành đào tạo (Hội họa, Điêu khắc, Đồ họa, Mỹ thuật Ứng dụng, Sư phạm Mỹ thuật). Nhằm mở rộng quy mô và đa dạng hóa các loại hình đào tạo, nhà trường đã liên kết, hỗ trợ đào tạo cho nhiều trường Cao đẳng, Đại học trong khu vực; Bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ cho giáo sinh các trường Sư phạm Mẫu giáo, Trung học, Tiểu học. Ngoài ra trường còn có các chương trình trao đổi sinh viên, giảng viên với nhiều trường Đại học khác trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương và thế giới.
Nghiên cứu khoa học - đặc biệt là về mảng nghệ thuật miền Trung, Tây nguyên - là một nhiệm vụ quan trọng của nhà trường. Trong những năm qua trường đã tổ chức nghiên cứu và nghiệm thu nhiều đề tài cấp bộ, cấp trường, chương trình và giáo trình giảng dạy. Bên cạnh đó trường cũng đã tổ chức hoặc phối hợp tổ chức thành công nhiều hội thảo khoa học, triển lãm, trại sáng tác cấp quốc gia và quốc tế. Với những thành tích hoạt động của mình, trường đã được nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng 3 vào năm 1009 và Huân chương lao động hạng 2 vào năm 2002.
Định hướng đào tạo của Trường trong những năm tới là phát triển quy mô một cách hợp lý trên cơ sở giữ vững và ổn định các ngành và chuyên ngành hiện có, bổ sung một số chuyên ngành; tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất nhằm từng bước hiện đại hóa thiết bị phục vụ giảng dạy, học và nghiên cứu khoa học tiến tới xây dựng các phòng học chuẩn quốc gia và quốc tế, đưa trường trở thành một một trong những trung tâm đào tạo chất lượng cao của cả nước./.


Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2014

Trường Đại học Y khoa Huế được thành lập ngày 28 tháng 3 năm 1957, từ năm 1975 về trước qui mô đào tạo nhỏ, Trường mới đào tạo được trên 200 Bác sĩ. Qua gần 50 năm xây dựng và phát triển đặc biệt hơn 30 năm sau ngày thống nhất đất nước, Trường Đại học Y khoa Huế đã không ngừng vươn lên thực hiện tốt các nhiệm vụ của nhà trường trong công tác đào tạo làm bằng đại học giá rẻ, nghiên cứu khoa học, khám chữa bệnh và chỉ đạo tuyến y tế cơ sở. Trong 50 năm qua, Trường đã đào tạo được hơn 9.000 Bác sĩ, Dược sĩ, Cử nhân đại học và đào tạo được gần 3.000 học viên Sau đại học tốt nghiệp ra trường.

Hiện nay, Trường có 524 cán bộ công chức và hợp đồng lao động. Về cán bộ giảng dạy, Trường có 259 cán bộ giảng dạy, trong đó có 48 Tiến sĩ , 121 Thạc sĩ, 16 chuyên khoa cấp II và 74 đại học. Hiện nay, Trường có 18 Giáo sư, Phó giáo sư và 84 giảng viên chính. 100% cán bộ giảng dạy đã qua nghiên cứu học tập ở nước ngoài.
Đào tạo Đại học, Trường đang đào tạo 13 chuyên ngành, trong đó, Hệ Chính qui 6 chuyên ngành (Bác sĩ đa khoa, Bác sĩ Răng hàm mặt, Dược sĩ đại học, Cử nhân Điều dưỡng, Cử nhân Kỹ thuật y học và Cử nhân Y tế công cộng); Hệ Không chính qui có 7 chuyên ngành làm bằng đại học giá rẻ (Bác sĩ đa khoa, Dược sĩ đại học, Cử nhân Điều dưỡng đa khoa, Cử nhân Điều dưỡng Hộ sinh, Cử nhân Điều dưỡng Gây mê, Cử nhân Kỹ thuật Xét nghiệm và Cử nhân Kỹ thuật hình ảnh). Số lượng tuyển sinh hàng năm trên 1000 sinh viên, đưa quy mô đào tạo Đại học của Trường hiện nay trên 3.800 sinh viên.
Đào tạo Sau Đại học, Trường đang đào tạo gần 60 chuyên ngành, trong đó Chuyên khoa cấp I có 22 chuyên ngành; Chuyên khoa cấp II có 16 chuyên ngành; Bác sĩ Nội trú có 6 chuyên ngành; Cao học có 7 chuyên ngành; Nghiên cứu sinh có 7 chuyên ngành. Số lượng tuyển sinh hàng năm gần 500 học viên đưa quy mô đào tạo sau đại học của Trường hiện nay gần 1000 học viên.
Nghiên cứu khoa học và hợp tác Quốc tế, Trường đã hoàn thành hàng chục nhánh đề tài cấp Nhà nước, gần 50 đề tài cấp Bộ, hơn 1.500 đề tài cấp Trường trong đó hàng ngàn đề tài đã được đăng tải trên các tạp chí trong và ngoài nước. Gần chục đề tài được cấp bằng sáng chế, trên 60 sáng kiến cải tiến được cấp bằng lao động sáng tạo. Đã tổ chức tốt hàng trăm hội, nghị, hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế. Trường có quan hệ hợp tác với trên 30 trường Đại học nước ngoài và các tổ chức y tế thế giới, đã triển khai thực hiện 23 dự án quốc tế và đào tạo nghiên cứu khoa học, điều trị bệnh và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Bệnh viện Trường Đại học Y khoa Huế được thành lập năm 2002 với quy mô bệnh viện loại 1, có 400 giường bệnh. Đây là mô hình mới, hoạt động theo đơn vị sự nghiệp có thu, tự hoạch toán 100%.
Với đội ngũ thầy thuốc giàu kinh nghiệm và trình dộ chuyên môn cao, Bệnh viện được trang bị các trang thiết bị hiện đại trong chẩn đoán và điều trị như CT scan, MRI, máy tán sỏi tiết niệu ngoài cơ thể, hệ thống máy siêu âm màu, siêu âm tim gắng sức, siêu âm tim qua thực quản, hệ thống máy nội soi chẩn đoán và can thiệp như nội soi phế quản, nội soi tiêu hoá, nội soi khớp, bàng quang, lồng ngực, phụ sản, các trang thiết bị hiện đại cho hệ thống phòng mổ, máy điều trị khớp bằng kích sốc, hệ thống máy xét nghiệm. Hàng năm Bệnh viện đã tiếp nhận khám chữa bệnh cho trên 200.000 người, phẫu thuật trên 2.000 người, điều trị gần 20.000 người, đặc biệt Bệnh viện đã nhận khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế cho trên 45.000 người.
Để phát triển mũi nhọn trong chẩn đoán và điều trị, tháng 9/2005 Trường đã đưa Trung tâm phẫu thuật các bệnh lý thần kinh sọ não bằng dao Gamma vào hoạt động, đây là thiết bị hiện đại đầu tiên có tại Việt Nam. Sự ra đời của Trung tâm phẫu thuật bằng dao Gamma tại Bệnh viện Trường đã được Bộ Y tế đưa vào một trong 10 sự kiện nổi bật của ngành Y tế Việt Nam năm 2005. Qua 1 năm hoạt động, Trung tâm đã điều trị trên 500 bệnh nhân ở trong nước và từ nước ngoài đạt hiệu quả cao. Ngày 19/8/2006, Trường khai trương Trung tâm dao Gamma thân điều trị các khối u ở vùng cổ, vùng ngực, vùng bụng…
Như vậy, với việc triển khai dao gamma đầu và dao gamma thân, Trung tâm phẫu thuật bằng Dao Gamma của Trường trở thành Trung tâm điều trị bằng dao gamma hoàn chỉnh nhất khu vực Đông Nam châu Á.
Hiện nay, Đảng bộ Trường có 629 đảng viên là cán bộ và sinh viên. Hàng năm, Đảng bộ Trường đã kết nạp gần 100 đảng viên mới. Trong những năm qua, Đảng bộ đã làm tốt vai trò lãnh đạo của mình nên trong 15 năm liền, Đảng bộ Trường được Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên Huế công nhận là Đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh. Các tổ chức quần chung như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên, Hội cựu chiến binh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát huy tốt vai trò chức năng của mình trong tất cả các mặt hoạt động của Trường, góp phần xây dựng Nhà trường phát triển vững mạnh.
Với những kết quả đã đạt được trong những năm qua, Nhà trường đã được tặng thưởng 02 Huân chương Lao động hạng Ba và Huân chương Lao động hạng Nhất, 04 Huân chương Lao động hạng Ba cho 1 tập thể và 3 cá nhân giai đoạn 2001-2005, 27 Bằng khen Thủ Tướng Chính phủ cho 10 tập thể, 17 cá nhân, 63 Bằng khen Bộ Giáo dục-Đào tạo cho 17 tập thể, 46 cá nhân. 20 Bằng khen của Uỷ ban Nhân dân các tỉnh Tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Kon Tum cho 15 tập thể và 05 cá nhân vì đã có nhiều thành tích xuất sắc trong đào tạo đội ngũ cán bộ y tế cho các Tỉnh miền Trung. 20 Bằng khen của Tổng liên đoàn Lao động, liên đoàn Ngành, Tỉnh và các Bộ khác.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giành độc lập cho đất nước đã kết thúc thắng lợi. Ngay sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng và Chính phủ rất quan tâm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Ngày 6 tháng 3 năm 1956 theo quyết định của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng cộng sản Việt Nam) và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã quyết định thành lập Trường Đại học Bách khoa Hà Nội với 4 khoa: Cơ khí, Mỏ - Luyện kim, Xây dựng và Hoá. Đến năm học 1962 - 1963 Trường mở rộng thành 6 khoa: Cơ khí Luyện kim, Điện, Mỏ - Địa chất, Hoá, Xây dựng và Khoa Tại chức.

       Tháng 8 năm 1964 cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ lan rộng ra toàn miền Bắc Việt Nam. Để tiếp tục duy trì công tác đào tạo trong hoàn cảnh có chiến tranh, tháng 9 năm 1965, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, trong đó có Khoa Mỏ - Địa chất, làm bằng đại học giá rẻ đã sơ tán lên vùng núi tỉnh Lạng Sơn. Tại đây, thầy và trò đã xây dựng lớp học, phòng thí nghiệm, xưởng thực tập, nhà ở tiếp tục công việc giảng dạy và học tập, bất chấp bom đạn hiểm nguy và những thiếu thốn, khó khăn của cuộc sống.
        Do nhu cầu cán bộ khoa học kỹ thuật phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam ngày càng lớn, theo chủ trương của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo), tháng 4 năm 1966 Trường Đại học Bách khoa Hà Nội ra quyết định thành lập Ban trù bị chuẩn bị thành lập Trường Đại học Mỏ - Địa chất do Giáo sư Nguyễn Văn Chiển làm Trưởng ban. Sau đó, do điều kiện công tác Giáo sư Nguyễn Văn Chiển được điều động sang trường Đại học Tổng hợp và đồng chí Đặng Xuân Đỉnh được cử làm Trưởng ban. Tháng 6 năm1966 mọi công việc của Ban trù bị đã hoàn tất. Ngày 8 tháng 8 năm1966 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 147/QĐ-CP thành lập Trường Đại học Mỏ - Địa chất trên cơ sở Khoa Mỏ - Địa chất của trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Ngày 31 tháng 8 năm 1966 tại làng Bút Tháp thuộc xã Đình Tổ - Thuận Thành - Hà Bắc đồng chí Đặng Xuân Đỉnh thay mặt Ban trù bị tổ chức cuộc họp làm bằng đại học giá rẻ công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Ngày 15 tháng 11 năm 1966 Trường Đại học Mỏ - Địa chất chính thức khai giảng khóa học đầu tiên. Kể từ thời điểm đó, ngày 15 tháng11 hàng năm được lấy làm Ngày Truyền thống của Trường.
       Ra đời trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, ngay từ lúc mới thành lập, Nhà trường phải hoạt động phân tán trên địa bàn rộng thuộc các thôn, xã của hai huyện Thuận Thành (Hà Bắc) và Mỹ Văn (Hải Hưng). Năm đầu thành lập Trường có 4 Khoa và 2 Ban: Khoa Mỏ, Khoa Địa chất thăm dò, Khoa Địa chất Công trình, Khoa Trắc địa, Ban Khoa học cơ bản và Ban Tại chức với 11 Bộ môn chuyên môn và 6 Bộ môn cơ bản và cơ sở. Tại địa điểm sơ tán Nhà trường đã tuyển sinh khoá đầu tiên (lúc bấy giờ là khóa 11 của Đại học Bách khoa) gồm 623 sinh viên hệ dài hạn và 77 sinh viên hệ chuyên tu. Mọi cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập của nhà trường chủ yếu nhờ vào sự giúp đỡ tận tình của chính quyền, nhân dân địa phương nơi sơ tán và dựa vào công sức lao động của thầy và trò. Để có đội ngũ cán bộ giảng dạy bảo đảm thắng lợi nhiệm vụ chính của trường, bên cạnh các thầy, cô giáo với số lượng ít ỏi từ Khoa Mỏ - Địa chất của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội chuyển sang, Nhà trường đã mạnh dạn tuyển hàng trăm kỹ sư mới tốt nghiệp từ các trường đại học trong nước và nước ngoài để bồi dưỡng thành cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý.
       Thực hiện chỉ thị số 222/CT-TTg ngày 7/8/1970 của Thủ tướng Chính phủ, Trường Đại học Mỏ - Địa chất là một trong những đơn vị đầu tiên đưa sinh viên xuống các cơ sở sản xuất vừa học vừa làm gắn với vùng công nghiệp than Quảng Ninh, các đoàn Địa chất và Trắc địa Bản đồ trên khắp mọi miền đất nước.
       Trong giai đoạn này, bên cạnh công tác đào tạo Nhà trường đã tổ chức thực hiện tốt nghị quyết 124/QN-TW ngày 24/6/1966 của Trung ương Đảng về công tác nghiên cứu khoa học trong các trường đại học. Trong những năm 1966 - 1967 thầy giáo và sinh viên của trường đã hoàn thành 10 đề tài cấp Nhà nước và cấp Bộ, 52 đề tài cấp Trường và hàng trăm hợp đồng phục vụ sản xuất. Nhiều đề tài phục vụ sản xuất và chiến đấu đã được thầy và trò thực hiện thành công trong những điều kiện khó khăn, thiếu thốn. Trong đó, tiêu biểu là các công trình: Công trình H8 (sân bay ngầm) do thầy và trò Khoa Mỏ cùng công binh Bộ Quốc phòng thực hiện thành công, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công Hạng 3; thầy giáo và sinh viên Khoa Cơ - Điện tham gia nghiên cứu chế tạo thiết bị thông nòng pháo; thầy giáo và sinh viên Khoa Trắc địa thực hiện công trình đo vẽ bản đồ địa hình cho các tỉnh Hà Bắc, Bắc Thái, Lai Châu... phục vụ kịp thời cho sản xuất và chiến đấu. Những thành tích nghiên cứu khoa học và phục vụ sản xuất của Nhà trường trong giai đoạn này đã được Chính phủ tặng Huân chương Chiến công, các địa phương đánh giá cao và tặng thưởng nhiều Bằng khen.
       Năm 1971 khi nhiều tỉnh miền Bắc bị lũ lụt lớn, cán bộ công chức và sinh viên nhà trường đã ra sức cùng nhân dân các địa phương nơi sơ tán phòng chống lũ lụt. Tháng 10 năm 1971 Nhà trường quyết định chuyển toàn bộ Khoa Trắc địa lên Sông Công (Bắc Thái) và thành lập Ban kiến thiết chuẩn bị cơ sở cho việc chuyển trường về địa điểm mới: thuộc Huyện Phổ Yên, tỉnh Bắc Thái.
       Đầu năm 1974 Đảng ủy, Ban Giám hiệu quyết định chuyển toàn bộ cơ sở của trường từ Thuận Thành - Hà Bắc lên Phổ Yên - Bắc Thái mở đầu một thời kỳ mới trong quá trình xây dựng và phát triển của trường. Tại đây thầy và trò lại một lần nữa phát huy tinh thần tự lực, tự cường bắt tay vào việc xây dựng lớp học, phòng thí nghiệm, hội trường, nhà ăn, ký túc xá sinh viên và khu tập thể cán bộ công chức.
       Mặc dù cuộc sống hết sức khó khăn, thiếu lương thực, thực phẩm, thiếu điện, thiếu nước... nhưng với sự nỗ lực vượt bậc trong một thời gian ngắn, nhà trường đã xây dựng được 19.500 m2 nhà cấp 4 trên một diện tích rộng hàng chục héc ta đủ đảm bảo các hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và sinh hoạt cho cán bộ, công chức, sinh viên của trường.
       Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, bên cạnh việc duy trì công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, Nhà trường đã động viên thầy giáo và sinh viên hăng hái lên đường tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại các chiến trường trong cả nước. Những năm 1972 - 1973 đã có 1050 thầy giáo và sinh viên của Nhà trường lên đường tham gia chiến đấu giải phóng Miền Nam. Trong số đó có nhiều đồng chí đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường, góp trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Nhiều đồng chí sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu đã trở lại giảng đường tiếp tục giảng dạy, học tập, góp phần xứng đáng vào việc xây dựng và phát triển Nhà trường.
       Sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được độc lập thống nhất, Đảng và Nhà nước có chủ trương sắp xếp và xây dựng lại các Trường Đại học ở Miền Nam để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật phục vụ công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội trên cả nước. Hưởng ứng chủ trương của Đảng, đáp ứng nguyện vọng của các đồng chí cán bộ có quê hương ở miền Nam, hàng chục cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý có trình độ và kinh nghiệm của Trường đã được điều động tăng cường cho các Trường Đại học phía nam. Trong đó có: Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Đà Lạt, Trường Đại học Tổng hợp Huế, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn... Đồng thời trong thời gian này, có nhiều đồng chí cán bộ có trình độ cao đã được điều động sang làm việc ở một số Bộ, Ngành, cơ quan Trung ương và các địa phương. Nhiều đồng chí đã trở thành cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ chốt của các trường đại học, các cơ quan nhà nước và các địa phương nói trên.
       Để góp phần đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật đáp ứng yêu cầu xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và Bảo vệ Tổ quốc, tháng 4 năm 1977 Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường quyết định thành lập Khoa Dầu khí để đào tạo các kỹ sư thăm dò, khai thác dầu khí cho ngành dầu khí non trẻ của Việt Nam. Tiếp theo, để đáp ứng sự phát triển kinh tế trong giai đoạn mới, vào tháng 1 năm 2000 Nhà trường đã quyết định thành lập Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Công nghệ thông tin và gần đây thành lập thêm 2 khoa: Xây dựng và Môi trường nhằm đáp ứng nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước.

Thứ Ba, 8 tháng 7, 2014

Đánh giá những thành tựu cũng như những tồn tại trong những năm qua, Bộ GD&ĐT tiếp tục khẳng định quyết tâm đổi mới công tác tuyển sinh ĐH, CĐ.

Hội nghị tập trung thảo luận về quy định tự chủ tuyển sinh của các cơ sở giáo dục ĐH. Phát biểu sau khi ghi nhận ý kiến từ đại diện lãnh đạo các trường ĐH, CĐ, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận cho biết với quy định mới này, Bộ không giới hạn hình thức thi tuyển đối với các trường. Các trường được phép đề xuất các hình thức thi tuyển, có thể là thi kết hợp với xét tuyển, phỏng vấn…
Trường thi riêng có thể tổ chức hai lần/năm
Đánh giá những thành tựu cũng như những tồn tại trong những năm qua, Bộ GD&ĐT tiếp tục khẳng định quyết tâm đổi mới công tác tuyển sinh ĐH, CĐ.
Theo đó, với quy định về tự chủ tuyển sinh ở các trường, Bộ cho biết do xuất phát điểm và quá trình phát triển của các trường không đồng đều và sự đa dạng của giáo dục ĐH, hơn nữa tuyển sinh là vấn đề nhạy cảm, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội nên việc thay đổi phải được kiểm soát. “Các trường phải thực hiện chuyển đổi một cách có trật tự, phải có đề án cụ thể. Việc chuyển đổi phải trải qua quá trình chuẩn bị, có thời gian quá độ, đảm bảo cho các trường chuẩn bị chu đáo, học sinh sẵn sàng” - Bộ trưởng Phạm Vũ Luận nhấn mạnh.
Cụ thể, trong giai đoạn quá độ (2014-2016), Bộ GD&ĐT sẽ hỗ trợ các trường làm bằng đại học chưa đủ năng lực tự chủ tuyển sinh hoặc chưa chuẩn bị kịp phương án tự chủ tuyển sinh. Sau năm 2016, chủ trương tất cả các trường sẽ phải tự chủ tuyển sinh. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận cũng nêu rõ quan điểm, việc chuyển đổi phải đảm bảo tinh thần “Chu đáo, chắc chắn, cẩn thận nhưng không trì trệ”, trong quá trình quá độ này, các trường được phép lên phương án về hình thức thi tuyển cho trường mình có thể thi kết hợp với xét tuyển, phỏng vấn…
đại học không giới hạn hình thức thi tuyển

Như vậy, trong thời gian quá độ sẽ cùng lúc tồn tại hai cách thức tuyển sinh, một số trường có phương án tuyển sinh riêng (được Bộ GD&ĐT chấp thuận) có thể tổ chức kỳ thi riêng, những trường khác chưa đủ điều kiện hoặc chưa được thông qua phương án sẽ vẫn thi làm bằng đại học theo hình thức ba chung như hiện nay. Bộ GD&ĐT cũng đặt ra yêu cầu không để phát sinh hiện tượng các tổ chức, cá nhân là cán bộ, giáo viên của nhà trường trục lợi trong tổ chức luyện thi, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho thí sinh, không để phát sinh tiêu cực, đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch…
Với quy định mới này, các thí sinh có thể có thêm cơ hội tham dự được nhiều đợt thi hơn. Các trường có phương án tuyển sinh riêng có thể tổ chức tuyển sinh hai lần/năm.
Các trường vẫn lo ngại
Phát biểu trong phần thảo luận, nhiều đại biểu là lãnh đạo các trường ĐH, CĐ đã thể hiện sự đồng tình cao đối với đề án tự chủ tuyển sinh của Bộ. Tuy nhiên, lãnh đạo nhiều trường vẫn bày tỏ quan điểm trong thời kỳ quá độ vẫn sẽ thực hiện tuyển sinh theo hình thức ba chung theo các mốc thời gian khác nhau. Phó giám đốc ĐH Quốc gia TP.HCM cho biết năm 2014 trường vẫn thi ba chung, tạo nền tảng để thay đổi dần từ năm 2015. Năm 2016, trường sẽ thực sự thay đổi hoàn toàn phương án tuyển sinh.
Trong khi đó, phó hiệu trưởng Trường ĐH Duy Tân cũng khẳng định năm tới trường vẫn thi ba chung. Tuy nhiên, để tiến tới năm 2017 thi riêng, đại biểu này đề xuất Bộ nên có một ngân hàng đề chung để các trường sử dụng, tránh tình trạng chênh lệch. Phó Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội Nguyễn Kim Sơn cũng khẳng định Bộ nên duy trì ba chung nhưng cần nới mở, mềm dẻo và tiên tiến hơn. Theo ông Sơn, năm 2014 ĐH Quốc gia vẫn thi chung và dự kiến đến năm 2015 trường sẽ tuyển sinh riêng.
Ngày 10-3, công bố các trường tuyển sinh riêng
Theo kế hoạch, sau ngày 28-12, Bộ GD&ĐT sẽ công bố quy định về nội dung của đề án tuyển sinh riêng lên website của Bộ tại địa chỉ: http://www.moet.gov.vn và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bất kỳ phương án thi riêng nào Bộ cũng cân nhắc kỹ, nếu không phù hợp sẽ không cho áp dụng.
Tiếp đó, đến ngày 10-2-2014, các trường ĐH, CĐ phải nộp phương án tuyển sinh về Bộ GD&ĐT. Những phương án này sẽ được công bố rộng rãi trên các phương tiện truyền thông để lấy ý kiến đóng góp trong toàn xã hội. Đến ngày 10-3, Bộ GD&ĐT sẽ công bố danh sách các trường ĐH, CĐ tuyển sinh riêng. Những thông tin này sẽ được Bộ GD&ĐT đưa vào nội dung quyển Những điều cần biết về tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2014.
Giáo dục phải hướng đến chuẩn quốc tế
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam mang đến hội nghị chiếc ổ cắm điện và chia sẻ câu chuyện khiến ông trăn trở. Phó Thủ tướng hồi tưởng lại trước đây đi nước ngoài phải sử dụng chiếc ổ cắm này. Ngày đó, những vật dụng này rất quý và phải mua ở nước ngoài nhưng hiện nay Việt Nam đã có thể tự sản xuất. Ông cũng lấy ví dụ từ chiếc USB nhỏ bé nhưng rất tiện dụng, có thể mang đi làm việc khắp nơi. Qua câu chuyện này, Phó Thủ tướng chia sẻ giáo dục phải hướng đến chuẩn quốc tế, vì lợi ích lớn lao của đất nước. Vì vậy, theo ông điều khó nhất là cần nhận thức được giáo dục nước ta đang ở đâu, điểm mạnh, yếu là gì để có phương hướng đổi mới phù hợp.

Theo lịch tuyển sinh, ngày 10/3/2014, Bộ GD&ĐT sẽ công bố danh sách các trường ĐH, CĐ tuyển sinh riêng. Tuy nhiên, phương pháp thi riêng sẽ ra sao? Làm sao đảm bảo công bằng? Đó là những câu hỏi khiến nhiều người băn khoăn.

Khác cách ra đề
Theo Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga, kỳ thi “3 chung” kéo dài hơn 10 năm và đã được xã hội đánh giá cao. Tuy nhiên hiện nay, nếu tiếp tục kỳ thi “3 chung” thì không phù hợp với thực tế, với Luật Giáo dục đại học mới và với xu thế phát triển. Vì vậy, Bộ có thay đổi phương án tuyển sinh vì đề án đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đã thay đổi mục tiêu đào tạo, thay vì kiểm tra kiến thức học sinh chuyển sang kiểm tra năng lực của học sinh. Theo đó, các trường sẽ tự lên đề án tuyển sinh riêng để trình Bộ GD&ĐT.
Thứ trưởng Bùi Văn Ga cho rằng: “Với việc thi riêng (ra đề riêng, phương thức thi riêng và cách đánh giá xét tuyển riêng), yêu cầu học sinh có kiến thức tổng hợp vì khi trường kiểm tra năng lực toàn diện, học sinh không thể học vẹt, phải học đều để có tư duy tất cả các môn. Đặc biệt, học sinh có thể chỉ thi 1 môn và kết hợp với phỏng vấn, kiểm tra năng lực. Yêu cầu khâu ra đề của các trường phải kiểm tra được năng lực làm bằng đại học của học sinh để phù hợp với yêu cầu tuyển sinh theo đặc trưng của trường mình… Trong khi đó, nếu tổ chức theo kì thi “3 chung” như trước, các trường khó tuyển được thí sinh theo ngành đào tạo của mình”.
tuyển sinh đại học đề thi 3 riêng sẽ như nào

Xác định chỉ tiêu ngành nghề
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga cho biết, Bộ GD&ĐT sẽ yêu cầu các trường xác định chỉ tiêu riêng cho một số ngành nhiều người học thay vì chỉ xác định chỉ tiêu làm bằng đại học tổng cho toàn trường, sau đó trường tự phân cho từng ngành như hiện nay. Những trường nhiều năm liền mất cân đối chỉ tiêu giữa các ngành, Bộ sẽ giao trực tiếp chỉ tiêu trên cơ sở năng lực đào tạo của từng ngành. “Việc này nhằm khắc phục tình trạng một số trường dồn chỉ tiêu cho các ngành dễ thu hút thí sinh, gây quá tải cục bộ, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo”, ông Ga nói.
PGS.TS Nguyễn Hội Nghĩa, Phó Giám đốc ĐH Quốc gia TPHCM cho rằng, việc cho phép các trường tuyển sinh riêng là động thái tích cực. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ nay đến đầu tháng 3/2014 phải có đề án tuyển sinh riêng thì quá gấp gáp. Vì vậy, nhiều trường ĐH vẫn sẽ chưa thi riêng trong mùa tuyển sinh 2014. Lãnh đạo Trường ĐH Tài chính - Marketing cũng cho rằng, thời gian nộp đề án tuyển sinh riêng từ nay đến tháng 3/2014 là quá gấp rút nên khả năng nhiều trường không chuẩn bị kịp. Khó khăn nhất của các trường chính là chuẩn bị ngân hàng đề thi và lựa chọn môn thi phù hợp.
Dễ nảy sinh tiêu cực?
Theo bạn đọc Quốc Vỹ (đường Láng, Hà Nội), thi chung hay thi riêng đều có ưu, nhược điểm. Tuy nhiên, dù chung hay riêng thì lo ngại nhất vẫn là kỷ cương trường thi, kỷ luật phòng thi. Ai dám bảo đảm là thi riêng sẽ nghiêm túc khi mà trường dân lập, tư thục đang rất cần người học? Ai dám khẳng định chắc chắn 100% là coi thi nghiêm túc, chấm thi nghiêm túc khi chính họ ra đề và chính họ tổ chức thi? Nếu không giải quyết được khâu nghiêm túc trong thi cử thì có chung hay riêng cũng không đánh giá được chất lượng thực sự.
Về vấn đề này, Thứ trưởng Bùi Văn Ga cho rằng, tư duy ra đề thi theo hình thức cũ là kiểm tra học thuộc lòng thì không đổi mới toàn diện giáo dục được. Bản chất đổi mới lần này là thay đổi căn cơ cách ra đề thi. Chúng ta phải nghĩ ra cách thi khác để hạn chế bất cập trong quá khứ và đạt được mục tiêu của đổi mới tuyển sinh. Bộ GD&ĐT đã giao quyền cho các trường thì đề thi là nhiệm vụ mà trường phải làm. Do đó, Bộ sẽ không làm giúp. Các trường có thể tự ra đề hoặc kết hợp với các trường để ra đề. Tuy nhiên, các trường phải đề ra “ngưỡng” tuyển sinh và lấy từ cao đến thấp như điểm sàn hiện nay. Các trường không được phép lấy thí sinh dưới “ngưỡng” cho dù có thiếu thí sinh.